Hoa Cẩm Chướng

Sunday, May 08, 2005

Hoa Cẩm Chướng


Sự ái mộ

Tên tiếng Anh : Carnation
Họ : Dianthus caryophyllus
Tên thông dụng : "Jove's Flower" - "Pinks" - "Gillies" - "Gilliflower" - "Sops-in-wine"

Thông điệp - ý nghĩa
Ý nghĩa chung : Sự ái mộ - Sự thôi miên, quyến rũ - Tình yêu của phụ nữ - Niềm tự hào - Sắc đẹp - Tình yêu trong sáng và sâu đậm, thiết tha (Admiration; Fascination; Woman's Love; Pride; Beauty; Pure and deep love).
Cẩm chướng thuần một màu : Đồng ý (Yes)
Cẩm chướng có vằn, sọc : Lời từ chối tình yêu (No, Refusal, Sorry I Can't Be With You, Wish I Could Be With You)
Cẩm chướng hồng : Anh sẽ không bao giờ quên em (I'll Never Forget You)
Cẩm chướng đỏ : Sự ái mộ (Ardor, Admiration)
Cẩm chướng đỏ thẫm : Trái tim tôi đau nhói vì em (Alas, for my poor heart. My heart aches for you)
Cẩm chướng vàng : Sự từ chối, sự khinh thường, thất vọng, hối hận (Rejection; Disappointment; Contempt; Disdain; Rue).
Cẩm chướng trắng : Ngọt ngào và đáng yêu, ngây thơ, tình yêu trong sáng, món quà may mắn cho phụ nữ (Sweet and Lovely, Innocence, Pure Love, Woman's Good Luck Gift)
Cẩm chướng tím : Tính thất thường, đồng bóng (Capriciousness)

Biểu tượng :
Bông hoa của tháng 1 : The flower of January
Biểu tượng hoa cho "Ngày của mẹ" (Mother's Day)
Biểu tượng quốc gia của người Slovene (ở Nam Tư)
Cẩm chướng đỏ (Scarlet Carnation) : Biểu tượng hoa của tiểu bang Ohio, U.S

Người ta nói rằng cái tên "Carnation" xuất phát từ tiếng Ý có nghĩa là "complexion", một số ý kiến khác lại cho rằng tên hoa từ tiếng Hy Lạp có nghĩa là "flesh". Nhưng cũng còn ý kiến khác nữa :"Carnation" từ "cornation" hay "corone" có nghĩa là "flower garlands" - "vòng hoa", do nó được trang trí trong những vòng hoa vào những dịp lễ ở Hy Lạp.Hoa cẩm chướng còn được gọi là "Pink" do mép cánh hoa hình răng cưa (to pink : cắt mép răng cưa; Pinking shear : cái kéo cắt răng cưa).

Tên khoa học của nó Dianthus caryophyllus có nguồn gốc Hy Lạp : "Di" - thuộc về Zeus "anthos" - hoa. Nó được nhà thực vật học Theopharatus đặt tên "Diathus" (divine flower).

Hoa cẩm chướng có nguồn gốc từ chấu Âu, chủ yếu là vùng Địa Trung Hải, nhưng cũng có một số tài liệu cho rằng nó được phát hiện đầu tiên ở vùng Viễn Đông. Bông hoa này đã được nhắc đến trong thần thoại La Mã và xuất hiện trong những ghi chép lịch sử thiên nhiên của tác giả người La Mã Pliny vào khoảng năm 50 trước Công nguyên.

Các tu sĩ La Mã thế kỷ 13 được xem như những người đầu tiên đã đem trồng những cây hoa cẩm chướng. Và bông hoa này đã rất quan trọng đối với người Hy Lạp và La Mã lúc đó, nó trở thành biểu tượng của người La Mã vào giai đoạn đỉnh cao của nền văn minh của họ. Nó cũng còn được gọi là "Jove's flower" (bông hoa của thần Jupiter), do Jove (Jupiter) là một trong những vị thần được họ tôn kính.

Thời Hy Lạp cổ đại. cẩm chướng là bông hoa được sủng ái nhất. Theo một truyền thuyết của Cơ đốc giáo, khi nhìn thấy Jesus trên thập tự giá, Mary đã khóc, và những bông hoa cẩm chướng đã mọc lên từ nơi mà những gịot nước mắt của bà đã nhỏ xuống.

Trong cuốn "Ngôn ngữ loài hoa" thời nữ hoàng Victoria (1837-1901), hoa cẩm chướng được xem như một món quà may mắn cho người phụ nữ.

Một số quan điểm hơi "mê tín" còn dùng hoa cẩm chướng để "xem bói". Ở Korea-Triều Tiên, 3 bông hoa cẩm chướng được cài trên tóc một cô gái, và số phận của cô được suy đoán từ thứ tự các bông hoa dần chết đi. Nếu bông hoa ở dưới cùng tàn héo trước, cô ấy bất hạnh suốt cuộc đời. Tuy nhiên, nếu bông hoa trên cùng úa tàn trước, những năm cuối đời của cô sẽ rất khó khăn. Còn nếu bông hoa ở giữa héo trước, những năm đầu đời của cô khá vất vả, nhưng có lẽ hậu vận sẽ tốt hơn.

Hoa cẩm chướng còn là biểu tượng quốc gia của Slovenia (ở Nam Tư). Cẩm chướng được ngợi ca trong những bài hát của người Slovene. Hình ảnh hoa cẩm chướng đỏ xuất hiện nhiều trong những đồ vật trang trí, đồ thủ công, thêu, gối, chiếc nôi em bé...của họ. Đối với họ, hoa cẩm chướng tượng trưng cho "món quà của Thượng Đế" hay "tình yêu đối với một đứa trẻ". Cẩm chướng đỏ còn tượng trưng cho lòng nhân hậu và tình yêu. Hình ảnh hoa cẩm chướng cũng thường thấy trên những hộp vải lanh của cô dâu, trên quần áo, mũ ni, khăn trùm đầu.. của các cô gái. Bó hoa gồm cẩm chướng, hương thảo, phong lữ có như một thông điệp về tình yêu, lòng thủy chung, chờ đợi và niềm hy vọng mà các cô gái cài trên ngực người yêu trước khi chàng trai phải lên đường ra mặt trận.

Ở vùng quê, nhất là ở những miền núi, hoa cẩm chướng được đặt trên ngưỡng cửa sổ hay ngoài bancông. Ngôi nhà của người nông dân với những bông hoa cẩm chướng là một nét đặc trưng của xứ sở Slovene.

Một truyền thuyết Italia kể rằng, Margherita - một thiếu nữ đã tặng cho người yêu của nàng - chàng hiệp sĩ Orlando một bông cẩm chướng màu trắng mà anh đã mang nó theo mình trên suốt đường chinh chiến. Rồi anh bị thương nặng và chết, máu anh nhuộm thẫm nơi chính giữa bông hoa trắng sau đó đã được đem về cho nàng Margherita với trái tim tan vỡ. Từ những hạt giống đó, Margherita trồng nên những bông cẩm chướng xinh đẹp màu trắng và luôn có khoảng màu đỏ nơi chính giữa cánh hoa. Margherita đã chung thuỷ mãi mãi với Orlando và ở vậy đến cuối đời. Sau đó, có tục lệ tặng cho mỗi em bé gái mới sinh ra trong gia đình cô một chậu hoa cẩm chướng đặc biệt ấy.

Trong lịch sử, hoa cẩm chướng cũng đã được nhắc đến vào thế kỷ 13, khi đội quân Thập tự chinh bị tấn công bởi dịch bệnh, gần Tunis. Người ta đã trộn lá cẩm chướng với rượu và uống nó để trị những cơn sốt dữ dội.

Trong cuốn sách nghiên cứu về thảo mộc thế kỷ 16, John Gerard đã viết rằng, hoa cẩm chướng và đường, chế thành mứt được dùng để chữa những cơn sốt và giải độc.

Người ta còn dùng hoa cẩm chướng trong sản xuất hương bia, rượu vang và chế thuốc nhuộm tóc đen (?).